Sunday, January 29, 2012

Cuộc đời ông cộng sản

Tôi cũng đã không viết về cuộc đời của ông già Bát(9). Ông ở cùng đội với tôi, nhưng giống như những người tù số lẻ khác, ông lầm lì và không thích nói tới nguyên nhân dẫn ông vào tù. Cái sự vào tù một cách dớ dẩn, chẳng ra đâu vào đâu, tưởng chừng chỉ riêng kẻ bắt người bỏ tù oan phải xấu hổ, hóa ra nó còn làm cho cả người bị tù oan cũng cảm thấy ngượng ngùng mới lạ. Cứ như thể họ không xứng đáng với danh hiệu tù chính trị bị khoác cho một cách bất đắc dĩ, như thể họ là kẻ nhận vơ, mà nhận vơ cái không phải của mình là sự rất đáng chê cười. 
 Tôi thường chọn một góc vắng ngồi đan tranh cùng ông trong thời kỳ trại sơ tán vào rừng để tránh máy bay Mỹ. Ngồi với ông thú vị ở chỗ mình có thể tha hồ suy nghĩ mà không bị cản trở - ông lão cậy miệng cũng chẳng nói một câu. Tán lá rừng xòe ra, đan kết với nhau, làm thành một tấm che khổng lồ, chỉ ở phía dưới là thoáng đãng, lác đác từng nhóm tù ngồi cặm cụi đan lát. Một anh lính canh ôm súng nhìn bao quát tất cả, canh chừng. Những người tù số lẻ hiền lành, chẳng bao giờ trốn, đôi khi anh lính tự cho phép mình gà gật một lát hoặc cặm cụi viết thư về nhà. Cái đời lính đóng trên vùng sơn cước chẳng khác đời tù là mấy. Cũng sáng dậy đi làm, tối về chui vào màn, không vợ con, không bếp lửa gia đình. Một hôm, ông Bát đang làm, bỗng nổi khùng, vứt toẹt con dao xuống đất, ngồi thừ ra, không thèm đan nữa. Rồi hai hàng nước mắt lã chã, ông vật vã ngiêng ngả như lên đồng, miệng lẩm bẩm xuýt xoa những tiếng vừa run rẩy vừa luống cuống, nghe não lòng lắm, như trong một cơn đau vật vã. Tôi cuống lên, chồm tới bên ông : - Bác làm sao thế ? Ông không trả lời mà chỉ rền rĩ : - Ốii giời cao đất dày ôi ! Tôi đau quá, đau quá, ông ơi ! Sao cái số kiếp tôi khổ thế này hả trời ?! Tôi hiểu. Ông không lên cơn đau bệnh, mà lên cơn đau lòng. Tôi đã vài lần chứng kiến cảnh tượng tương tự. Những người tù đang yên lành bỗng nổi cơn điên khùng, chửi bới, đập phá lung tung. Công an sầm sập chạy vào, trói tay trói chân, nhét giẻ vào miệng, sai trật tự(10) khiêng đi. Sau mấy ngày nằm xà lim kỷ luật họ trở ra, mặt mũi phờ phạc, cái nhìn vô cảm, bước chân đđẫn, đi mà như không đi. Anh lính canh khoác súng lên vai đủng đỉnh bước lại : - Ê, hai anh kia, mần đi chớ ! - Bác ấy bị trúng gió. - tôi nói. Anh lính nheo mắt nhìn ông già vật vã trên đống tranh, nói nhẹ nhàng : - Rứa nghỉ đi chút. Tôi có hộp dầu xoa đây. Anh lục túi, đưa cho tôi hộp dầu cao. Tôi đỡ lấy, cảm ơn anh lính tốt bụng. Không phải anh lính canh nào cũng được như anh. Nhưng có thứ dầu nào xoa dịu được nỗi đau trong lòng ông bạn già của tôi lúc này. Tôi ôm lấy ông Bát trong vòng tay, đung đưa ông như ru đứa trẻ. Ông nhẹ bỗng, không thể tưởng tượng nổi ông già có thể nhẹ như thế. Trông bề ngoài ông cũng không đến nỗi nào. Có lẽ những tấm áo bông mặc đắp lên nhau làm cho tôi có cảm giác ông to hơn, nặng hơn. Ông choàng tay ôm lấy tôi : - Ðời tôi khổ lắm, ông ơi ! - Chúng mình đây có ai sướng đâu ! - Nhưng tôi khổ hơn cả. Người ta còn có tội, chứ tôi thì tội tình gì đâu ! - Cũng nhiều người không có tội đấy. - Ông nghe tôi nói này. - ông thì thào - Ông chớ có tin chúng nó. Ðám số lẻ này toàn chống chế độ cả đấy ! Chúng nó phản động cả đấy. Không oan đâu. Tôi ở tù lâu, tôi biết. ông thì không, ông cũng như tôi... Tôi cười buồn : - Tôi cũng chống chế đđấy chứ. Người ta bảo thế. - Người ta nói mặc người ta ! Mình biết mình - không là không ! - Bác làm sao bị bắt ? Ông già nấc lên từng chặp. - Tôi theo cách mạng cướp chính quyền, cũng đã làm thôn đội rồi xã đội một hồi kháng chiến chống Pháp... Tôi theo cụ Hồ, sao, ông không tin hở ? - Tôi tin chứ. - Sau, hòa bình lập lại rồi, tôi nghỉ. Mọi sự khốn khó bắt đầu từ đấy. - Người ta bảo bác bất mãn ? - Không. Nhưng ở chế độ ta không làm cán bộ nữa là hết, thì người ta không tin mình nữa, không còn coi trọng mình nữa. Mà làm dân thì, ối giời ơi, khổ lắm, khổ đđường, ông chắc cũng biết, có cần kể cho ông nghe không ? - Không cần. - Cho nên các cháu nhà tôi đều nhao đi làm cán bộ. Thằng cả chưa đủ tuổi xung phong đi bđội. Con bé sau nó xin làm chân văn thư cho ủy ban xã không được, xin làm công an xã. Rồi nó được cảm tình Ðảng(11)... - Tiến bộ quá ! - Tiến bộ gì. Con bé nhà tôi năm nay hăm nhăm rồi. Vẫn chưa chồng. Khốn nạn, nó xinh, ông ạ. Mắt đen lay láy, mà nhanh lắm. Má lúm đồng tiền. Da cứ trắng hồng. Nó trông mẹ nó, như lột. Ông nấc lên, kéo vạt áo lau mắt. - Cô ấy làm sao ? - Chẳng làm sao cả. - ông mếu máo - Thằng công an xã, chi ủy viên, cứ gọi nó đi hội ý hội báo, bồi dưỡng...Rồi con bé nhà tôi phễnh bụng ra. - ... - Tôi phẫn chí. Chưa ai biết cả, nhưng bà nhà tôi biết, tôi biết. Tôi uống rượu, say rồi, tôi chửi cha chúng nó, chửi cả lò nhà chúng nó ... - Chết thật ! - Ðến khi làng phong phanh biết con tôi chửa hoang, thì tôi chửi cả cái Ðảng của chúng nó... - Chậc chậc, khiếp quá ! Sao bác dại thế ? - Không chửi để cho chúng nó muốn làm gì thì làm à ? Ðảng gì mà họp thì thọt, bồi dưỡng đảng viên mới gì mà cứ tối đến mới í ới gọi nhau đi bồi dưỡng, bồi dưỡng cái mả cha chúng bay à ?! Rác tai quá, bí thư xã, chủ tịch xã cho con gái ông đi dự lớp huấn luyện, kỳ thực là đi phá thai. Ông biết, ông cấm con gái ông phá. Cái thai nó tội tình gì ? Nó cũng là một con người chứ. Nó chưa ra đời. Nó chưa làm hại ai. Nó không như cái quân chó dái chạy nhông, quân ăn cứt uống đái làm hại đồng bào. Không được phá thai, cứ đẻ ra tao nuôi, giết cái thai là bất nhân, là vô đạo, ông trói con và chân giường mà dạy. Nhưng con ông xấu hổ, không nghe ông, cứ đi phá thai. Ông uống rượu nhiều hơn nữa, chửi dữ hơn nữa. Tóm lại, ông Bát chửi sướng miệng thì thôi. Còn những đứa bị ông chửi thì thù ông mục mả. Trưởng công an xã báo cáo công an huyện. Công an huyện lập hồ sơ. Cứ mỗi lần ông Bát chửi là một lần công an xã báo cáo, mỗi lần báo cáo được gửi lên là hồ sơ tên phản động Nguyễn Thái Bát lại dày thêm một chút. Cho tới ngày người ta bắt ông đi cải tạo về tội "tuyên truyền phản động, chống Ðảng, chống chế độ". Tôi dửng dưng nghe ông kể. Những câu chuyện tương tự nghe nhiều rồi, đâm ra ngán. - Tôi kể cho ông nghe để ông là nhà văn ông nhớ lấy, ông kể cho mọi người biết. Ðừng nói đến tên tôi là được rồi, kẻo tội cháu. Nó còn lấy chồng. Ông Bát dặn tôi thế. 
Tôi ậm ừ : - Nhà văn gì tôi ! Ở nước ta cứ viết dăm bài báo là người ta bốc nhau lên, gọi là nhà văn rồi. - Thì ông đưa lên báo cũng được. - Biết bao giờ tôi về ? Tôi cũng như bác thôi, cũng án cao su cả... Ông thở dài : - Ừ nhẩy ! - Mà giá có ra được, viết thế lại đi tù nữa, tôi ngán lắm rồi ! Ông không nói gì nữa. Ông chết vào ngày Quốc Khánh, cái ông Bát đã đi cướp chính quyền năm bốn lăm. Ông đã ốm liệt trước đó gần một tháng, được trại cho đi nằm bệnh xá. Nằm được một ruần ông nằng nặc đòi vđội. Người ông phù thũng, trong ra như một con búp bê chứa đầy nước. Trại cũng không bắt ông đi làm lao động nữa, cho ông ở nhà. Hàng ngày ông ra đầu hè bắt rận. Hai ngày trước khi chết ông không dậy, cứ nằm thiêm thiếp. Ông chỉ tỉnh lại khi nghe tiếng dao thớt ầm ĩ phía nhà bếp vọng lại. Ông mở mắt ra, vẫy tôi lại gần rồi thều thào bảo tôi : - Ông xem giúp chúng nó chia có đều không ? Tôi nể ông, giả vờ ra ngoài, chỗ tù đang xúm đông xúm đỏ chia thịt. Nhưng tôi chđứng đó, chứ chẳng buồn nhìn. Tôi biết ông Bát chẳng còn sống được bao lâu. Không hiểu sao ông còn quan tâm tới suất thịt đến thế ? Mà có theo dõi hộ ông cũng vô ích. Tôi đã kể, tù số lẻ chia theo kiểu quay mặt đặt tên, nói chung là công bằng, hơn kém nhau không đáng kể. Vả lại, cảnh tượng những con người đói khổ hau háu theo dõi những miếng thịt tí xíu được đặt vào những cái bát sứt sẹo trông thảm lắm, tôi không muốn nhìn. Cuộc chia thịt đã xong, ông bạn nằm cạnh ông Bát mang cái tô tráng men có ba miếng thịt to bằng ba quân cờ với bát canh sắn - khẩu phần của ông Bát - đến bên ông. Ông Bát đang khò khè, ngửi thấy hơi thịt là tỉnh hẳn. - Phần ông đây ! - ông bạn ông Bát nói - Dậy mà ăn đi. Ngon lắm ! - Tôi xem cho bác rồi. Chia đều. - tôi nói - Suất của bác có phần còn nhỉnh hơn các suất khác kia đấy. Bác cố dậy mà ăn kẻo nguội. Ông gật đầu, hoặc tôi nghĩ rằng ông gật đầu. Cố gắng một lát để ngồi lên, nhưng ngồi không được, ông ngã xuống. Cố thêm một lần nữa, ông nghển lên được, ngó vào bát thịt một cái rồi nói : - Thịt rang à ? Tí nữa tôi ăn. Ông nằm xuống và đi ngay, theo mọi người nhận xét. Tôi không có mặt lúc ông Bát đi. Anh em tù ăn xong, vào tận chỗ ngó ông, mặt buồn rầu. Không ai nói câu nào. Như thế gọi là viếng. Suất cơm của ông để chỏng chơ. Mọi người bảo cứ đđó, khi chôn thì đặt nó lên mộ ông thay cho bát cơm quả trứng. Xác ông được đưa xuống trạm xá chờ cán bộ trại mang hồ sơ xuống xác nhận chính là tên phản động Nguyễn Thái Bát đã chết chứ không phải tên nào khác.  
Khi cửa các phòng giam đã khóa lại rồi, tôi cứ ngồi bên cửa sổ mà nhìn về phía trạm xá. Trời tối hẳn mới thấy nghe tiếng búa nện chan chát trên ván thiên - dấu chấm hết cho một kiếp người. Rồi quan tài được khiêng ra dưới ánh sáng của một bó đuốc. Ði lững thững sau quan tài là một anh công an mang AK. Không thấy suất ăn tươi của ông đâu. Chắc hẳn ai đó tiếc của giời đã ăn rồi. Còn hai cái bát họ sẽ đánh bóng mạ kền rồi đem chác cho tù mới.

trích nguyên văn  phần cuối chương 41 hồi ký " Đêm giữa ban ngày"  của Vũ Thư Hiên


Saturday, January 28, 2012

CÁI CHẾT CỦA NÔNG THỊ XUÂN VÀ 2 NGƯỜI EM

Cha tôi sai tôi chở ông lên đường Cổ Ngư cũ về phía Chèm. Tới dốc lên đê, ông bảo tôi dừng xe. Châm một điếu thuốc, ông chọn chỗ cỏ sạch để ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên ông. Ráng chiều bắt đầu nhuộm đỏ mặt hồ Tây và một phần hồ Trúc Bạch. Gió nồng ẩm mang theo hương dong nước ngọt bị vứt lên bờ và hương lá mục ngai ngái. - Con nhớ lấy chỗ này, quãng gốc cây thứ tư và thứ năm từ trên đê đổ xuống - cha tôi chỉ tay về phía trước - Nơi này đã xảy ra một tấn thảm kịch mà rồi đây con phải tìm hiểu để mà viết. Nó là tấn thảm kịch có tính chất tượng trưng cho một sự đổ vỡ lớn của một nền đạo đức và rộng ra, của một thời đại ... Mắt cha tôi mờ đi. Giọng ông đứt quãng. - Con không hiểu bố muốn nói gì ... - Lúc này con không hiểu cũng được. Hiểu bây giờ vừa sớm, vừa nguy hiểm. Việc của bố là đánh động trí nhớ của con, bắt nó ghi lại một lời nói không rõ ràng đđừng quên, sau này ... Thôi, ta về. Trên đường về nhà cha tôi không nói thêm lời nào nữa. Tôi cũng không dám hỏi. Nếu cha tôi đã không nói, có nghĩa là hỏi cũng vô ích. Ông Nguyễn Tạo đã giải đáp cho tôi câu hỏi đó, nhiều năm về sau : - Bố anh không muốn kể vì vào thời kỳ câu chuyện xảy ra bố anh không còn làm việc với Bác Hồ nữa, bố anh e mình không nắm rõ, không trực tiếp biết sự việc, không biết chi tiết, kể sẽ không đầy đủ, không khách quan. Hoặc giả, bố anh sợ anh biết câu chuyện quá sớm thì hại cho anh, tôi không rõ ... Nhưng bố anh muốn anh biết để có lúc anh sẽ phải viết ra. Bố anh bảo tôi kể cho anh nghe cũng không ngoài ý đó. - Bác biết ? Ông gật đầu : - Không phải chỉ mình tôi biết. Còn có người khác biết. Số cán bộ công an ở cấp vụ trưởng hồi bấy giờ đều biết cả... - Vậy chuyện gì đã xảy ra ở dốc Chèm, thưa bác ? - Một vụ án mạng oan khuất. - Ở chính nơi bố cháu chỉ cho cháu ? - Ở đó. Có một người đàn bà bị xe cán chết, hay nói cho đúng hơn, xác của người đó. - Một hiện trường giả ? - Chính là như vậy. - ông ngậm ngùi - Người đàn bà này bố anh cũng biết, tên là Xuân, quê ở huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng. Cô Xuân rất xinh gái, da trắng nõn, miệng tươi như hoa, được Ban bảo vệ sức khoẻ Trung ương tuyển vào trông nom sức khoẻ cho Bác Hồ... - Thời gian nào, thưa bác ? - Sau khi hòa bình lập lại, khoảng năm 1955... - Cùng được Trần Ðăng Ninh tuyển một lúc với cô Xuân còn có hai người em gái cô ta, một em ruột, một em họ, cũng là con cái gia đình gốc gác cách mạng cả. Họ được bố trí ở trong một ngôi nhà ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, sát đường Quang Trung. Thông thường, Trần Quốc Hoàn tự thân đưa cô Xuân vào gặp Bác rồi đưa về... - Mỗi lần như vậy bà ta ở lại bao lâu ? - Không chừng. Có khi chỉ một đêm, có khi đôi ba hôm ... Cô Xuân rất được lòng Bác. Họ có với nhau một con trai, được đặt tên là Trung, Nguyễn Tất Trung. Về sau trước khi Bác mất Bác ủy thác thằng Trung cho Vũ Kỳ chăm sóc, coi như con nuôi... Tôi sững sờ. Lại thêm một bí mật tôi được biết trong những bí mật cung đình được giữ rất kín. - Như vậy, có thể coi như bà Xuân là bà hoàng hậu cuối cùng trong lịch sử Việt Nam ? Ông cười chua chát : - Có thể coi là như vậy. Và là bà hoàng hậu bất hạnh nhất trong lịch sử Việt Nam. Bất hạnh vì không một ngày được thừa nhận là hoàng hậu, vì đẻ ra đứa con không được gọi cha ruột của nó bằng cha... Tất cả diễn ra trong sự lén lút nhục nhã, như thđó là tội lỗi. - Ai đã giết bà Xuân ? - Ðừng vội. Ta hãy ghi nhận sự việc này : vào một buổi sáng mùa xuân năm 1957, người ta thấy có xác một người đàn bà bị xe ô tô đụng chết ở dốc Cổ Ngư lên Chèm(14). Xác chết được đưa vào bệnh viện Việt Ðức, được nhận dạng. Ðó chính là cô Xuân. Nhưng xác không được mổ theo thường lệ, mà bị chôn cất vội vã, theo lệnh của Trần Quốc Hoàn. - Tại sao lại Trần Quốc Hoàn ? - Bởi vì cô Xuân là người của cơ quan trực thuộc Trung ương, việc xảy ra phải báo cáo ngay cho Trần Quốc Hoàn biết. - Rồi sau thì sao ? - Chưa hết. Sau, em ruột của cô Xuân bị điều đi học một lớp y tá ở Thái Nguyên, rồi bị đưa về Cao Bằng điều trị bệnh... thần kinh. ớt lâu sau xác cô nổi lên ở một cây cầu trên sông Bằng Giang... Cô em gái họ cũng biến mất. Như vậy là cùng một thời gian, cùng một sự việc, có tới ba người thiệt mạng. - Những đầu mối đều bị bịt ? - Tất nhiên. Nhưng những lý do dẫn tới những cái chết đã bị lọt ra ngoài. - Về những cái chết này không có ai điều tra hết ? Ông Tạo cúi mặt xuống. - Không. - Tại sao, thưa bác ? - Tại vì thủ phạm là một nhân vật quá to để có thể đụng tới. - Trần Quốc Hoàn ? - Phải. - ông thở dài - Tất cả những người biết việc này đều có lỗi với hương hồn cô Xuân và hai cô em, tất cả đã không dám làm gì để rửa mối hận cho họ. Tất cả đã cúi đầu trước guồng máy, trước uy tín của Ðảng có thể bị mất đi vì vụ bê bối này. Mọi người đều lầm khi nghĩ như vậy... - Vì sao Trần Quốc Hoàn giết bà Xuân ? - Ðó là một câu chuyện dài. Khi Bộ Nội Vụ, vì công tác bảo vệ, bố trí cho mấy chị em cô Xuân ở ngôi nhà của Bộ ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, thì chỉ có vài người biết họ là ai. Trong ngôi nhà này còn hai gia đình cấp vụ khác ở cùng. Thời gian trước khi cô Xuân bị giết ít lâu, Trần Quốc Hoàn thường tới đó. Việc Trần Quốc Hoàn tới thăm rồi cưỡng hiếp cô Xuân, cô em của cô Xuân biết, có nói lại cho người yêu của mình ở quê. Anh này về sau có làm đơn tố cáo gửi Trung ương. - Và Trung ương im lặng ? - Không phải anh ta gửi ngay lập tức. Ngay lập tức thì anh ta cũng bị giết ngay, mà mãi về sau này... - Cụ Hồ không có ý kiến gì về mấy cái chết oan khuất đó ? Ông Nguyễn Tạo đăm chiêu suy nghĩ. - Có nhiều điều chúng ta không biết được. - ông nói, giọng bùi ngùi - Tôi nghĩ thân phận Bác lúc ấy cũng tội nghiệp lắm. Biết nói với ai ? Với Lê Duẩn chăng ? Hay Lê Ðức Thọ ? Hay nói thẳng với Trần Quốc Hoàn ? Tôi nghĩ Bác là con người, Bác cũng biết đau khổ. Nhưng cái thế của Bác buộc Bác phải im lặng... - Nghĩa là, theo bác, ông Hồ không có lỗi ? - Trong mấy cái chết nói trên ? Không. - Nhưng sự im lặng trước cái chết của họ ? Ông Hồ cũng không có lỗi ? - tôi gặng - Bỏ ra ngoài mối quan hệ tình cảm, chỉ nói tới cái chết oan khuất của một con người, với tư cách đồng bào ? - Thế hệ các anh khắc nghiệt trong sự phán xét. - ông thở dài - Tôi hiểu các anh. Các anh vô can. Chúng tôi thì không. Chúng tôi tđặt mình trong sự ràng buộc với Ðảng, với những quyết định của nó, dù sai dù đúng. Chúng tôi lo lắng cho uy tín của Ðảng. Chúng tôi cảm thấy nhục nhã nếu Ðảng bị phỉ báng. Ðảng là cuộc sống tinh thần của chúng tôi, là danh dự của chúng tôi. Bác cũng vậy. Ông Cụ cũng đau đớn lắm chứ. Ông cũng là con người. Như mọi người. Các anh khác. Các anh chỉ nhìn thấy một lẽ công bằng, đòi phải có nó, đòi mọi sự phải sòng phẳng. Cái đó là phải thôi. Ðúng, chứ không sai. Nhưng có nên như vậy không nhỉ ? Hay là cần phải độ lượng hơn, thông cảm hơn với sự yếu đuối của con người ? Dù họ có là ai đi chăng nữa... 


trích nguyên văn trong phần cuối chương 34, hồi ký ''Đêm giữa ban ngày" của Vũ Thư Hiên